Monday, January 1, 2001

Hoa quả giúp “hạ hỏa” ngày thu

Bước vào thu, thời tiết hanh khô, cơ thể chúng ta dễ bởi vậy xuất hiện triệu chứng bốc hỏa gây ho, táo bón, khô nhiệt miệng... Mách bạn 8 loại quả dưới đây có tác dụng hạ hỏa trong ngày thu.

Chuối tiêu

 

Theo quan niệm Đông y, chuối tiêu tính hàn, vị ngọt hơi chát, không có độc, có không ít tác dụng như thanh nhiệt, giải khát, làm sạch dạ dày, làm mát máu, nhuận tràng thông tiện, giúp hạ huyết áp, lợi tiểu…

 

Do đó, chuối tiêu đặc biệt rất tốt cho những người miệng khô hay khát, bị chứng táo bón, hoặc máu nóng. Tuy nhiên, người bị suy tì vị không nên ăn chuối tiêu.

 

 Hoa quả giúp “hạ hỏa” ngày thu 1

Mía

 

Mía vị ngọt tính hàn, có công dụng thanh nhiệt, hạ khí, thường được sử dụng cho những người có các triệu chứng như nóng trong người gây nhiệt, miệng khô, bị trào ngược dịch axit trong dạ dày gây buồn nôn, phổi nóng gây ho, hoặc nóng nhiệt trong người gây táo bón.

 

 

Lê vị ngọt hơi chua, tính hàn, cũng có công dụng thanh nhiệt, nhuận phổi, tiêu đờm. Do đó thường được dùng để trị các bệnh như táo bón, ho do nóng nhiệt trong người, hen xuyễn gây mất tiếng...

 

Tuy nhiên, người bị nhiễm lạnh dẫn đến suy tì vị, tiêu chảy tuyệt đối không được ăn lê. 

 

Sơn tra 

 

Trái sơn tra có công dụng lợi khí phổi, tiêu đờm, trị ho do nóng nhiệt, giúp điều hòa dạ dày, thanh nhiệt giải khát.

 

Tuy nhiên người bị táo bón, mắc bệnh trĩ, viêm khí quản tuyệt đối không được sử dụng loại trái cây này.

 

Hoa quả giúp “hạ hỏa” ngày thu 2

Ô liu

 

Vị ngọt hơi chát, tính bình, ô liu có công dụng thanh nhiệt cho phổi, giải khát, giúp thông cổ họng, giải độc. Do đó, ô liu chủ yếu được sử dụng cho các trường hợp đau sưng cổ họng, nóng nhiệt gây cảm giác khô cổ, ho do phổi bị nóng nhiệt, ho ra máu, nhiệt do trúng độc rượu.

 

Táo

 

Vị ngọt, tính mát, táo có tác dụng khai vị, điều hòa t,ì, nhuận phổi, tăng cường sức khỏe tim, giải khát, trị tiêu chảy. Ngoài ra, táo cũng có công dụng trong việc ngăn ngừa xơ cứng động mạch, làm giảm lượng cholessterol, và giúp phòng ngừa ung thư.

 

Tuy nhiên người bị bệnh tiểu đường, nhồi máu cơ tim không nên ăn loại quả này

 

Hồng

 

Hồng  có vị ngọt, tính hàn, công dụng nhuận phổi, trị ho, thanh nhiệt, giải khát, tiêu viêm, kiện tì, nhuận tràng, cầm máu. Dó đó loại quả này tốt cho việc trị liệu các chứng bệnh như cao huyết áp, trĩ  ra máu. Tuy nhiên không nên ăn quá nhiều.

 Hoa quả giúp “hạ hỏa” ngày thu 3

Mã thầy

 

Vị ngọt, tính hàn, mã thấy có công dụng thanh nhiệt cho phổi và dạ dày, tiêu viêm. Do đó loại quả này có thể trị các chứng như đại tiện thể ra máu, trĩ, giúp bộ phận ngừa cao huyết áp, và hỗ trợ trong việc trị liệu các chứng ho mãn tính, ho có không ít đờm.

TheoDân trí

Tập thể dục 30 phút hiệu quả hơn tập 1 giờ

Các nhà khoa học tại Đại học Copenhagen (Đan Mạch) đã đưa ra kết luận trên sau lúc theo dõi 60 người đàn ông quá cân nhưng có sức khỏe tốt trong 13 tuần. 30 người được tham dự yêu cầu tập thể dục 30 phút/ngày bằng cách chạy bộ hoặc đạp xe, trong khi số còn lại tập một giờ/ngày. Kết quả cho thấy những người tập 30 phút giảm được 7,9 pound (hơn 3,5kg) trong vòng 3 tháng, trong lúc những người có thời gian tập lâu hơn chỉ giảm được 6 pound (2,7kg).

 

Tập thể dục 30 phút hiệu quả hơn tập một giờ 1
Theo bà Jespersen, sau khi luyện tập, nhóm tập một giờ/ngày cảm thấy kiệt sức và ít cởi mở hơn đối với những thay đổi tốt cho sức khỏe. TS. Jespersen nhấn mạnh chỉ cần tập luyện vừa phải và duy trì các sinh hoạt mang tính vận động sẽ mang lại lợi ích đáng kể cho những người muốn giảm cân.

Kim Thu

(Theo Scandinavian Journal of Public Health, 9/2013)

Để khô khớp không làm phiền

Khô khớp là hiện tượng các khớp khi vận động phát ra tiếng động lạo xạo hay lục khục. Đây là 1 triệu chứng của bệnh lý khớp. Khô khớp có thể chỉ biểu hiện đơn độc. Nhưng khô khớp cũng có thể kèm theo các triệu chứng khác của bệnh khớp như sưng, nóng, đỏ khớp, đau khớp, giảm thiểu vận động. Ở Khoa Khớp, Bệnh viện Bạch Mai hàng ngày có đến 100 bệnh nhân khớp mắc chứng khô khớp tới khám và điều trị.

Để khô khớp không làm phiền 1

Vì sao bị khô khớp?

Có 3 nguyên nhân chính gây chứng khô khớp là tổn thương sụn khớp, tổn thương xương dưới sụn và giảm tiết dịch khớp. Khi sụn khớp bị tổn thương, bề mặt khớp không còn trơn nhẵn nữa mà trở nên xù xì, thô ráp, lồi lõm. Theo thời gian, sụn khớp càng ngày mỏng đi, nứt nẻ..., để trơ lại lớp xương nằm bên dưới. Các ụ xương, gai xương có hiện tượng trên bề mặt xương có thể cọ xát lên lớp màng xương tại các đầu xương, gây ra tiếng lạo xạo và kèm theo đau. Thoái hóa khớp là nguyên do chính dẫn tới khô khớp. Đây là một bệnh rất phổ biến, chiếm tỷ lệ 30% bệnh nhân khớp.

Những người hay mắc chứng khô khớp thường là: người trên 60 tuổi; những người trẻ tuổi không được đem đến đủ vitamin và khoáng chất; ngoài ra, những người uống nhiều rượu bia, hút thuốc lá, những người béo phì, người liên tục phải lao động nặng do các khớp bị đè nén nhiều hay sự trảo đổi hormon như estrogen... cũng dễ bị khô khớp.

Điều trị thế nào?

Đầu tiên là phải phát hiện nguyên do bệnh gây chứng khô khớp. Nếu phát hiện sớm và điều trị kịp thời thì có thể ổn định bệnh chỉ cần khoảng dài. Thứ 2 là phải sử dụng các thuốc giúp phục hồi khớp bị tổn thương. Đó là các thuốc chống thoái hóa khớp, chứa các thành phần của sụn khớp như collagen týp 2, glucosamin, chondroitin, axit hyaluronic.

 

Hiện nay, có cả liệu pháp tiêm acid hyaluronic nội khớp, thường là vào khớp gối, vai. Phương pháp tiêm này nhằm cung cấp acid hyaluronic là một thành phần của dịch khớp, giúp bôi trơn khớp, giảm ma sát, giảm xóc, do vậy, làm khớp vận động trơn tru. Thông thường, bệnh nhân có thể được tiêm 3-5 mũi tiêm về 1 khớp, mỗi mũi tiêm cách nhau 1 tuần. Một số nghiên cứu cho thấy, tác dụng giảm đau, bôi trơn khớp kéo dài tới 6 tháng hoặc một năm do thuốc tiêm vào kích thích các tế bào sụn và tế bào màng hoạt dịch khớp sản sinh ra acid hyaluronic nội sinh.

 

Ngoài ra, cần bổ sung canxi vitamin D, các khoáng chất khác như magiê, vitamin K hàng ngày qua các thực phẩm như sữa, rau, trái cây để giúp xương chắc khỏe. Nếu cần phải có có thể bổ sung mỗi ngày một viên đa sinh tố chứa magiê, vitamin K, acid folic, vitamin B6 và B12. Chúng ta cần tích cực điều trị và dự bộ phận khô khớp càng sớm thì kết quả càng cao và càng đỡ tốn kém.

Để khô khớp không làm phiền 2

Cách nào để bộ phận ngừa và giảm thiểu khô khớp?

Chúng ta có thể làm chậm quy trình khô khớp bằng chế độ ăn uống và tập luyện, vận động đúng mức, thích hợp tình trạng sức khỏe.

Trong chính sách ăn, bạn nên ăn các loại thực phẩm giàu dinh dưỡng, khoáng chất như cá biển, mực, tôm, cua, rong biển hay những loại rau mồng tơi, đậu. Bạn cần hạn chế đồ uống có cồn, bỏ hút thuốc lá, thuốc lào. Bạn cũng cần bảo vệ khớp khỏi các chấn thương.

 

Trong sinh hoạt hàng ngày, cần tránh các tư thế ngồi xổm, hạn chế lên xuống cầu thang, tránh cúi xuống nhấc vật nặng hay ngồi hàng giờ cong vẹo người tại tư thế xấu lúc thêu thùa, may vá, viết lách. Bạn cũng không nên làm động tác bẻ các ngón tay kêu lắc rắc vì sẽ làm chấn thương dây chằng hay mặt khớp. Không nên tập thể hình với mang vác tạ quá nặng ở tư thế đứng hay ngồi. Tránh va chạm mạnh khi chơi các môn thể thao đối kháng như đá bóng, bóng rổ. Bạn nên tập thể dục đều đặn. Những lúc nghỉ giải lao giữa giờ làm việc, bạn nên vươn người, co duỗi tay, chân tại chỗ, làm các bài tập thể dục nhẹ nhàng.

 

Các bài tập theo sách Suối nguồn tươi trẻ hay tập Thái cực quyền, tập khí công rất hữu ích cho sự mềm dẻo, linh hoạt của khớp. Trước khi tập thể thao, bạn nên liên tục xoa bóp, khởi động cơ thể. Cũng cần có chương trình luyện tập thể thao nâng cao dần từ nhẹ đến nặng, từ đơn thuần đến phức tạp. Khi tập luyện, nên tiến hành từ từ, không tập quá sức. Không nên nôn nóng, đốt cháy giai đoạn. Những môn thể thao có lợi cho xương khớp là đi bộ, đi xe đạp, bơi lội.

PGS.TS.BS. Nguyễn Vĩnh Ngọc

(Khoa Khớp - Bệnh viện Bạch Mai)

Chế độ ăn cho người tăng huyết áp

Đối với người bệnh tăng huyết áp, việc ăn uống đóng vai trò rất quan trọng. Nếu việc đánh tráo chế độ ăn uống được thực hiện một cách nghiêm túc thì tác động của các nhân tố nguy cơ trên đối với tăng huyết áp có thể đảo ngược. Việc thực hiện chính sách ăn kiêng rất tốt có thể có tác dụng có lợi đến huyết áp.

ối liên quan giữa chế độ ăn và huyết áp đã được các nghiên cứu chứng minh nhiều. Những người ăn chay hoặc chính sách ăn có hàm lượng muối thấp có huyết áp thấp hơn những người nhiều đạm, mỡ, muối. Những người có huyết áp thấp hơn đã thấy được có mối liên quan giữa việc dùng chế độ ăn có rất nhiều potassium, magnesium, calcium, protein và chất xơ, cùng với việc dùng chất béo và đồ uống có cồn thấp hơn.

Chế độ ăn cho người tăng huyết áp 1 Người bị tăng huyết áp nên ăn cá hấp hoặc luộc.

Thêm vào đó, thành phần của chính sách ăn không cân đối, thừa cân và béo phì, các yếu tố nguy cơ của nâng cao huyết áp đang nâng cao lên 1 cách đáng kể trong cộng đồng.

Thay đổi hành vi cũng rất quan trọng, không những điều trị tăng huyết áp mà còn phòng ngừa nâng cao huyết áp nữa. Một vài can thiệp bao gồm phương pháp sử dụng chính sách ăn với ngăn chặn tăng huyết áp: giảm natri, giảm cân, dùng đồ uống có cồn lượng trung bình đã cho thấy huyết áp tại những đối tượng này thấp hơn những người nâng cao huyết áp. Các chuyên gia đã đưa ra khuyến cáo lối sống trong phòng và điều trị nâng cao huyết áp như sau:

- Duy trì cân nặng ở mức thông thường hoặc giảm cân nếu chỉ số khối cơ thể BMI ≥ 23;

- Giảm lượng natri ăn vào tới 2,4g/ngày (6g muối) hoặc ít hơn mỗi ngày;

- Hạn chế đồ uống có cồn không quá hai lần chuẩn hoặc ít hơn mỗi ngày đối với nam và không quá 1 lần chuẩn đối với nữ (1 lần chuẩn = 14g ethanol gồm 2 cốc bia hoặc một cốc rượu mạnh nhỏ hoặc 1 cốc rượu vang).

- Chế độ ăn có rất nhiều hoa quả, rau, sữa ít béo, lượng chất béo khẩu phần thấp, đặc biệt acid bão hòa, cholesterol.

- Kết hợp hoạt động thể lực, tập luyện aerobic mức trung bình khoảng 30 phút/ngày, nhiều ngày trong tuần.

Chế độ ăn cho người nâng cao huyết áp 2

Thực phẩm nên dùng với người bệnh nâng cao huyết áp

Nên ăn cá luộc và đậu phụ nhiều bữa trong tuần. Sử dụng cá và gia cầm thay thế thịt càng liên tục càng tốt. Cá 3 lần/tuần. Dùng thêm sữa đậu nành, tôm, cua và các thực phẩm có rất nhiều kali như: cam, chanh, chuối, rau bắp cải, rau khoai lang, rau mồng tơi. Dùng dầu thực vật thay mỡ. Có thể dùng thêm tâm sen, lá vông, hoa hòe để an thần và nước râu ngô, bông mã đề để lợi tiểu. Khi huyết áp nâng cao cao, nên ăn nhạt và không nên ăn nhiều chất đạm.

Thực phẩm không nên dùng

Các thức ăn giàu cholesterol như: óc, lòng, tim, gan, bầu dục, lòng đỏ trứng, trứng cá, chocolate. Các loại đồ nướng, bánh có mỡ, bơ thực vật độ đậm đặc cao, thức ăn nhanh. Các loại mỡ, bơ, sữa nguyên kem; các loại bánh, mứt kẹo, đồ uống ngọt; các chất kích thích như gia vị, rượu chè, cà phê; các thức ăn nhiều muối như thịt muối, cá muối, dưa cà muối, các loại thực phẩm như jambon, xúc xích, lạp xường...

PGS.TS. Trần Minh Đạo

Rước họa khi tự ý sử dụng thuốc Nam

Bị mẩn ngứa, coi đó là bệnh xoàng, ngại đi khám, sử dụng thuốc Nam vừa lành vừa hiệu quả lại đỡ tốn kém, kết quả là chợt loét da toàn thân, khắp người có hiện tượng các bọng nước kèm theo rỉ dịch, có thể dẫn tới rối loạn nước điện giải, suy gan, thận, thậm chí tử vong. Đây là tình trạng các ca bệnh liên tiếp nhập viện đầu tháng 10 mới đây tại Bệnh viện (BV) Da liễu Trung ương mà y học gọi là hội chứng Lyell do nhiễm độc thuốc Nam.

Hội chứng Lyell là thể bệnh nhất là nghiêm trọng của nhiễm độc da do dị ứng thuốc. Ðây là tình trạng hoại tử thượng bì tối cấp và có tổn thương nhiều phủ tạng. Tổn thương da là những hồng ban, bọng nước, tiếp theo xuất hiện chợt loét toàn thân để lại các rỉ dịch. Nếu không được điều trị kịp thời và đúng cách thì bệnh nhân sẽ bị rối loạn nước điện giải, nhiễm khuẩn huyết, nhiễm khuẩn phổi dẫn tới tử vong.

Nguy hại khi sử dụng thuốc Nam

Trường hợp điển hình là bệnh nhân (BN) Võ Văn H. 45 tuổi (xóm Cậy, xã Huống Thượng - huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên). Anh H. thấy người lác đác xuất hiện những mảng mẩn ngứa, cho đó là triệu chứng rất bình thường, anh chẳng phải nghĩ tới việc đi BV để khám và uống thuốc theo đơn của bác sĩ vì sợ tốn kém. Anh đến ngay nhà 1 thầy lang mua liều thuốc 50 ngàn đồng, vừa bôi lên da vừa uống cho nhanh khỏi. Theo thầy lang, chỉ sử dụng thuốc 1 hoặc 2 lần là sẽ hết mẩn ngứa. Nhưng chỉ một ngày sau lúc dùng thuốc, ngứa không những không giảm mà còn tăng, khắp người xuất hiện ban đỏ. Sau 3 ngày liên tiếp sử dụng thuốc, anh bị sốt, da toàn thân bị chợt rất đau rát, khiến người đỏ như một con tôm luộc. Trên da có các bọng nước từ 2 - 3cm có chỗ 5 - 6cm với mật độ dày, 1 số bọng nước vỡ để lại vết chợt rỉ dịch có mùi tanh. Khi được đưa về BV Da liễu Trung ương, gia đình anh H. thậm chí còn nghĩ anh khó lòng qua nổi. Cuối cùng chỉ vì ngại, tiếc tiền đi viện mà anh H. đã phải tốn hơn cả chục triệu đồng để điều trị di họa của thuốc Nam. May mắn, đến nay anh H. đã được xuất viện và khỏi bệnh.

Trường hợp thứ 2 là chị Nguyễn Thị H. (Quảng Ninh) vừa nhập Bệnh viện Da liễu Trung ương được vài ngày trong tình trạng toàn thân ban đỏ, da chợt xước, có các bọng nước. Chị cho biết, trước khi nhập viện, do có triệu chứng mẩn ngứa nên đã mua liều thuốc Nam chỉ 40 ngàn vào uống và bôi. Bà con quanh vùng nhà chị thường sử dụng loại thuốc này mà không ai bị sao. Nhưng cho đến giờ chị vẫn thắc mắc không hiểu ở sao mình lại bị nặng như thế này dù chỉ sau có hai ngày dùng.

Rước họa lúc tự ý dùng thuốc Nam 1 Da toàn thân bệnh nhân H. bị chợt loét, rỉ dịch lúc nhập viện.

Hướng xử trí

PGS.TS. Trần Hậu Khang, Giám đốc BV Da liễu Trung ương cho biết: Việc điều trị cho BN Võ Văn H. mất hơn nửa tháng và mất 3 tuần để da toàn thân BN trở lại như bình thường. BN được dùng thuốc chống dị ứng solumeron 2 - 3mg/kg/ngày, histamin, truyền dịch, kháng sinh toàn thân và tại chỗ; nhất là kháng sinh toàn thân là rất cần thiết để tránh bị nhiễm khuẩn huyết. Những vùng da rỉ dịch cho đắp Jarish, bôi mỡ kháng sinh. BS. Phạm Thị Thảo, người trực tiếp điều trị cho BN H. cho biết thêm: Điều trị BN mắc hội chứng Lyell, trước đây, BN nằm giường rải bột table để bột thấm hút các chất dịch nhưng rất dễ gây dính bết, vệ sinh khó. Mỗi lúc thay đổi tư thế nằm BN rất đau đớn, có lúc bị lột cả mảng da trên lưng. Nhưng hiện nay, do đắp gạc Urgotul có hỗn dịch giữ ẩm, thông thoáng, chống dính nên mỗi lần làm vệ sinh hoặc trở mình BN đỡ đau hơn và không bị chợt da nữa.

Thuốc Nam không nên dùng tùy tiện thể

Rước họa lúc tự ý sử dụng thuốc Nam 2 Bệnh nhân H. sau điều trị.

Theo PGS.TS. Trần Hậu Khang, việc tự ý sử dụng thuốc Nam không rõ Xuất xứ sẽ mang lại những tổn hại không nhỏ đến sức khỏe (có thể bị chợt loét tất cả da, rỉ dịch, rối loạn điện giải, nhiễm khuẩn máu, tổn thương da toàn bộ cơ thể, suy gan, thận) thậm chí dẫn đến tử vong. Nếu bệnh nhân may mắn được cấp cứu kịp thời thì cũng phải mất khá nhiều thời gian điều trị và giá bán là không nhỏ. Thuốc Nam tuy được coi là lành tính nhưng nếu như dùng không chín xác sẽ gây hậu quả khôn lường, đặc biệt với 1 số người, do cơ thể không thích ứng với các thành phần của thuốc sẽ gây ra phản ứng.

Hơn nữa, thuốc Nam có rất nhiều loại không được kiểm nghiệm nguồn gốc. Đặc biệt trong quy trình trồng các cây thuốc Nam, người ta đã phun các loại hóa chất để kích thích hoặc thuốc trừ sâu. Hoặc trong quá trình bảo quản để tránh mốc và hong thuốc nhanh khô, người ta đã phun hóa chất lên thuốc. Và đây là nguyên do khiến cho gần như BN nhập viện vì bị ngộ độc các loại hóa chất này. Khi thấy có triệu chứng mẩn ngứa, rất tốt nhất người dân nên tới các trung tâm y tế hoặc BV để khám chữa bệnh và tuân thủ theo chỉ dẫn dùng thuốc của bác sĩ, tránh xảy ra những tình trạng đáng tiếc.

Thanh Loan

Virut gây nhiệt miệng có thể chống lại ung thư

Hiệp hội Ung thư Mỹ đang tiến hành nhiều nghiên cứu vào khả năng chống lại bệnh ung thư của liệu pháp virut. Các nhà khoa học điều chỉnh để virut thay vì làm suy yếu hệ miễn dịch sẽ đi trực tiếp vào các khối u rồi phá hủy chúng.

Có 2 loại virut được dùng trong nghiên cứu. Một loại là virut đã được làm suy yếu để không gây ra nhiễm trùng nhưng vẫn đủ mạnh để xâm nhập vào các khối u. Loại còn lại là gen chứa virut được thêm thuộc tính mới: chống ung thư, kích thích miễn dịch, tấn công mạch máu ung thư. Các loại virut này còn được biết tới với tên gọi cold sore hay herpes simplex (loại virut gây ra chứng rộp môi, lở miệng, nhiệt miệng). Cả 2 loại virut đều được đưa trực tiếp vào các khối u đặc, làm cho chúng từ từ bị phá hủy, teo lại rồi biến mất.

Hiện nay, liệu pháp virut vẫn đang được thử nghiệm trên động vật nhưng dựa về kết quả khả quan nó mang lại, các nhà nghiên cứu hy vọng sẽ nhanh chóng nhất phát triển nó thành 1 biện pháp chữa ung thư hiệu quả.

M.H (Theo LS, 10/2013)

Đề phòng dị ứng thức ăn

Dị ứng thức ăn là 1 phản ứng miễn dịch của cơ thể khi ăn phải loại thức ăn gây dị ứng. Những phản ứng dị ứng thức ăn có thể xảy ra từ nhẹ tới nặng như: viêm da dị ứng, nổi mề đay, rối loạn tiêu hóa, suy hô hấp, sốc phản vệ đe dọa tính mạng.

Ai dễ bị dị ứng?

Dị ứng thức ăn thường diễn ra tại những người có cơ địa dị ứng và hay kết hợp với các bệnh: viêm mũi dị ứng, viêm kết mạc dị ứng, chàm và hen suyễn, di truyền...

Hiện nay, do các thay đổi của không gian sống như: biến đổi khí hậu, tiếp xúc với các bệnh truyền nhiễm khi còn nhỏ, các loại chất gây dị ứng và chính sách ăn uống thay đổi.

Protein trong thực phẩm là thành phần gây dị ứng phổ biến nhất. Phản ứng dị ứng xảy ra khi hệ thống miễn dịch của cơ thể xác định nhầm một protein là có hại, cho rằng cơ thể đang bị tấn công nên huy động các tế bào bạch cầu tới bảo vệ và gây ra phản ứng dị ứng.

Đề phòng dị ứng thức ăn 1
Một số loại thức ăn dễ gây dị ứng.

 Các loại thức ăn dễ gây dị ứng

Phổ biến đặc biệt dị ứng với lạc (đậu phộng), thường gặp ở trẻ em và thường rất nặng. Các loại hạt trái cây như hồ đào, hạt thông, dừa, cây óc chó, vừng... cũng hay gây dị ứng. Các loại thức ăn có nguồn gốc thực vật chứa protein có thể gây dị ứng là: đậu nành, lúa mì, trái cây, rau, bắp, gia vị, màu tự nhiên hay tổng hợp và các chất phụ gia thực phẩm. Lòng trắng trứng gà, sữa bò, sữa dê, sữa cừu, cá, tôm, nghêu, sò, ốc, hến... cũng hay gây dị ứng. Mức độ dị ứng với thức ăn nhẹ hay nặng phụ thuộc về các yếu tố: di truyền, chủng tộc, độ tuổi. Ở mỗi độ tuổi thường bị dị ứng với 1 số loại thức ăn nhất định, có thể kéo dài suốt đời nhưng cũng có thể hết dị ứng lúc đến độ tuổi nào đó. Nhiều nghiên cứu cho thấy: nồng độ IgE cao nhất trong thời thơ ấu có thể giảm nhanh tại độ tuổi từ 10 - 30 tuổi. Dị ứng các hạt cứng thường diễn ra ở trẻ từ 1 - 7 tuổi, chẳng hạn 6 - 36 tháng tuổi hay dị ứng với hạt vừng (mè). Người trưởng thành hay dị ứng với: nghêu, sò, ốc, hến, tôm, cua, cá và thường rất dai dẳng. Trẻ em 6 - 24 tháng tuổi thường bị dị ứng với lòng trắng trứng gà, sữa bò, lúa mì, đậu nành... Dị ứng thức ăn cũng diễn ra có tính chất địa phương, chẳng hạn dị ứng cá biển thường gặp ở các nơi  ăn nhiều cá ngừ.

Biểu hiện của dị ứng thức ăn

Các triệu chứng dị ứng thức ăn ở mỗi người xảy ra khác nhau. Số lượng thực phẩm đủ để kích hoạt một phản ứng dị ứng cũng đánh tráo tùy theo cơ địa mỗi người. Các phản ứng dị ứng thức ăn qua trung gian IgE có khởi phát cấp tính, từ vài giây tới 1 giờ, gồm các triệu chứng: phát ban, ngứa tại miệng, môi, lưỡi, cổ họng, mắt, da, hoặc các bộ phận khác; sưng (phù mạch) tại môi, lưỡi, mí mắt, hay cả khuôn mặt; khó nuốt, chảy nước mũi hoặc nghẹt mũi, khàn giọng; thở khò khè hoặc khó thở, buồn nôn, nôn mửa, đau bụng do co thắt dạ dày. Nặng đặc biệt sốc phản vệ, trong đó những người có bệnh hen suyễn hoặc bị dị ứng với lạc (đậu phộng), hải sản rất dễ bị sốc phản vệ.

Một số nghiên cứu cho biết, những trẻ em đã bị dị ứng với protein của sữa bò thường bị dị ứng chéo với các sản phẩm đậu nành. Những người dị ứng với latex (chất cao su tổng hợp) thường hay bị  dị ứng với chuối, kiwi, bơ và một số loại thực phẩm khác.

Điều trị thế nào?

Dị ứng thức ăn hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Nguyên tắc cơ bản điều trị dị ứng thức ăn là tránh sử dụng các loại thức ăn đã từng gây dị ứng cho bệnh nhân trước đó. Đối với người lần đầu tiên bị dị ứng thức ăn, tốt nhất nên đến cơ sở y tế để được điều trị và hướng dẫn phòng tránh dị ứng lần sau. Điều trị dị ứng thức ăn bao gồm: phương pháp giải mẫn cảm; bệnh nhân bị dị ứng phải tránh tiếp xúc với loại thức ăn đã gây dị ứng cho mình vì nếu như tiếp xúc với loại thức ăn gây dị ứng, có thể bị sốc phản vệ rất nguy hiểm. Nếu có điều kiện, những người có cơ địa nhạy cảm, hay bị dị ứng thức ăn, luôn phải mang theo thuốc chống dị ứng để có thể xử trí cấp cứu kịp thời khi xảy ra dị ứng thức ăn.

Phòng tránh dị ứng

Cần thực hiện nhiều biện pháp phối hợp. Theo khuyến cáo của Viện Hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ, các bà mẹ nên cho con bú sữa mẹ ít nhất 4 tháng đầu sau sinh sẽ giảm nguy cơ bị dị ứng thức ăn so với các trẻ chỉ nuôi bằng sữa công thức; có thể ngăn ngừa hoặc làm chậm sự có hiện tượng của bệnh viêm da thể tạng, tình trạng dị ứng sữa bò và thở khò khè. Do rất khó xác định lượng thức ăn tối thiểu đủ gây ra 1 phản ứng dị ứng, nên người có tiền sử dị ứng thức ăn cần thận trọng khi ăn uống, đặc biệt lúc đi ra ngoài, ăn thức ăn ở hàng quán. Vì phải tránh ăn những loại thức ăn gây dị ứng nên bệnh nhân có thể bị thiếu dinh dưỡng. Các nhà phân phối dịch vụ chăm sóc sức khỏe thường đề xuất các nguồn thực phẩm khác thay thế các vitamin và khoáng chất thiết yếu  ít gây dị ứng.

ThS. Nguyễn Xuân Lãm